Tiêu đề: Vụ Án Oan Sai ở Hà Đông (Hà Nội) Thu Jul 15, 2010 4:07 pm
Vụ án cướp tài sản, hiếp dâm có nhiều tình tiết được cho là oan sai liên quan đến 3 chú cháu Nguyễn Đình Tình, Nguyễn Đình Lợi, Nguyễn Đình Kiên, ở phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông, Hà Nội vẫn đang gây bức xúc dư luận, bởi sau 10 ngày kể từ khi phiên toà giám đốc thẩm được thông báo hoãn, 3 thanh niên cũng như 3 gia đình lại rơi vào trạng thái bất ổn. Đặc biệt đối với Nguyễn Đình Tình - người đang gồng trên đầu cái án "tử hình" do bị nhiễm HIV trong thời gian thụ án thì sự chờ đợi đang như một thứ vũ khí tàn nhẫn cướp đi của chàng trai nhạy cảm, ý chí và nghị lực này quỹ thời gian chỉ còn được tính từng ngày.
Mệt mỏi vì chờ đợi
Gặp lại họ, tôi giật mình vì sự buồn bã, trăn trở tái hiện rõ trên gương mặt của 3 chàng trai đã chịu bao cay đắng sau hơn 9 mùa trăng vướng vào vòng lao lý. Chiều 4/6/2010, hàng trăm người đã khấp khởi, hồi hộp, hy vọng phiên toà giám đốc thẩm sẽ gỡ bỏ được chiếc dây oan từng thít chặt cuộc đời 3 chú cháu Tình, Lợi, Kiên. Nhưng thực tế, phiên toà đã bị tạm hoãn và cho đến hôm nay, vẫn chưa có thông tin gì về ngày mở lại khiến mọi người thắc mắc, lo lắng.
Bước ra từ căn nhà tuềnh toàng của bà nội, gương mặt của Nguyễn Đình Kiên không còn nét vui hồ hởi như trước mà mang vẻ trầm tư mệt mỏi. Nguyễn Đình Lợi vốn là người bộc trực, nên dường như sự xuất hiện của tôi là dịp để Lợi bộc bạch hết những suy nghĩ trăn trở đang dồn nén sau cái trán đầy những nếp nhăn như... ruộng bậc thang mấp mô. Nguyễn Đình Tình gần như trở nên câm lặng. Từ những tâm sự của 3 chú cháu, tôi lật lại những trang tài liệu đã thu thập được trong suốt quá trình theo dõi thông tin về vụ việc được xem là "kỳ án" này và thấy rằng sự trăn trở của họ là điều dễ hiểu.
Mổ xẻ những mâu thuẫn trong hồ sơ
Theo VKSDNTC, bản án hình sự phúc thẩm số 583 ngày 22/4/2002 của Toà phúc thẩm TANDTC kết tội các bị cáo là thiếu căn cứ. Hồ sơ vụ án thể hiện các bị cáo có rất nhiều lời khai, nhưng những lời khai ấy chứa đầy sự mâu thuẫn. Bản kháng nghị số 02 ngày 26/1/2010 của Viện trưởng VKSNDTC đã phân tích, mổ xẻ tới 9 mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án. Bài viết này chỉ nêu một số chi tiết cơ bản về những mâu thuẫn này.
Về hành vi cướp tài sản: Tại bút lục (BL) 206, Lợi nhận trong khi Tình hiếp chị H thì Lợi tháo đồng hồ, khuyên tai, nhẫn vàng (gọi chung là trang sức) của chị rồi sau đó mới cầm tuýp sắt sang khống chế anh H thay Kiên và quát "có bao nhiêu tiền thì bỏ ra". Anh H móc túi quần sau đưa cho Lợi 1 ví da màu tối. Lợi lấy tiền ở trong túi quần anh H đếm được gần 200.000 đồng và dùng tuýp sắt vụt vào tay anh H gây thương tích 21/%. Nhưng tại BL 220 Lợi khai là sau khi dùng tuýp sắt vụt anh H khi anh bỏ chạy, quay sang chỗ Tình, Kiên đang khống chế chị H rồi mới tháo trang sức của chị. Tại BL 225, 230 Lợi lại khai dùng dao khống chế anh H và thò tay vào túi áo ngực của anh lấy được 180.000 đồng rồi bảo Tình lục túi lấy ví tiền của anh H. Sau đó Lợi mới tháo trang sức của chị H và dùng gậy gỗ đánh anh H...
Cũng với hành vi cướp tài sản, Tình khai nhận tại BL 305 rằng Lợi dí dao vào cổ anh H nói "ông anh có tiền cho bọn em xin ít" và xông tới lục soát người anh H lấy được 1 chiếc ví. Tình dùng điếu cày vụt vào tay anh H khi anh bỏ chạy làm anh ngã sấp xuống bờ mương. Tình chạy tới đẩy anh H ngã sấp xuống và ngồi lên lưng anh. Khi tình đang hiếp chị H thì anh H bỏ chạy và hô cướp. Lợi chạy về cầu Hai Cây, qua ánh đèn nhà Lợi, Tình mang ví tiền ra đếm được 317.000 đồng, đưa cho Lợi, Kiên mỗi người 100.000 đồng, còn lại 117.000 đồng Tình sử dụng. Tại BL 316, Tình lại khai Lợi lục soát người anh H lấy từ túi quần sau của anh một tập gì đấy và cất vào túi quần, còn Tình không lấy gì của anh H. Khi anh H bỏ chạy, Tình dùng gậy đánh làm anh ngã chúi xuống.
Kiên là người ra tự thú ngày 16/12/2000 và được đánh giá là khai báo thành khẩn. Kiên khai bản thân không cướp được gì của đôi trai gái. Lợi dùng dao khống chế anh H và nói "có gì bỏ ra đây". Tình lục soát người anh H và túm cổ áo kéo anh về phía cầu Dương Nội, lấy được tiền. Lợi tháo trang sức của chị H cho vào túi quần đùi kéo khoá lại. Khi anh H bỏ chạy, Lợi đuổi theo về phía cầu Hai Cây, Tình hiếp chị H, lúc này anh H đã chạy gần đến đơn vị A40 hô cướp, Kiên hô chạy thì Tình đứng dậy. Sau đó Lợi đếm tiền được 300.000 đồng, đưa cho Kiên 80.000 đồng.
Về hiện trường: Vụ án xảy ra khoảng 20h30 ngày 24/10/2000, nhưng đến 14h20 ngày 25/10, cơ quan điều tra (CQĐT) mới tổ chức khám nghiệm hiện trường. Khi khám nghiệm không có người bị hại, người chứng kiến. Nhân chứng là một số cán bộ, bộ đội của đơn vị M5 và A40 (những người trực tiếp tới hiện trường vụ án đưa đồ vật của người bị hại, vật chứng mà thủ phạm bỏ lại về đơn vị) lại không được tham gia, mặc dù CQĐT đã ghi lời khai của họ trước khi tiến hành khám nghiệm. Vì thế không có căn cứ xác định vị trí các đồ vật tại hiện trường và cũng không có căn cứ xác định đó là hiện trường thật nơi xảy ra vụ án.
Tại biên bản xác định hiện trường, CQĐT lại xác định hiện trường nơi xảy ra vụ án ở một địa điểm khác. Công tác khám nghiệm của cơ quan điều tra công an tỉnh Hà Tây (cũ) đã vi phạm Điều 125 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 1988 (nay là Điều 150 BLTTHS năm 2003). Do đó không có giá trị pháp lý. CQĐT cũng không dựng lại hiện trường và thực nghiệm điều tra là bỏ qua một hoạt động điều tra hợp pháp theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự có ý nghĩa quan trọng để củng cố các tài liệu đã thu thập được, định hướng điều tra đúng nhằm tìm ra sự thật khách quan của vụ án.
Về vật chứng vụ án: Vật chứng duy nhất trong vụ án là chiếc áo phông thủ phạm bỏ lại tại hiện trường, có giá trị truy nguyên thủ phạm. Chiếc áo này được chị H và một số người ở đơn vị M5 và A40 trực tiếp xem, xác nhận là chiếc áo phông màu đỏ, cổ bẻ, có sọc ngang màu vàng, xanh. Chị H đã mang chiếc áo này đến trình báo sự việc tại công an xã Dương Nội ngay trong đêm 24/10/2000, nhưng hồ sơ không thể hiện việc thu giữ chiếc áo này. Trong báo cáo sự việc của công an xã Dương Nội với công an huyện Hoài Đức cũng không có nội dung thu giữ chiếc áo này. Tại biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 25/10/2000 của CQĐT ghi nhận đã phát hiện, thu giữ chiếc áo phông xác định là của thủ phạm bỏ lại hiện trường. Nhưng đó lại là áo phông cộc tay màu đỏ, cổ chui, có các sọc ngang màu vàng, xanh, đen, khác hẳn chiếc áo phông mà chị H đã nhặt của thủ phạm bỏ lại hiện trường.
Việc CQĐT tổ chức cho các nhân chứng cùng các bị cáo nhận dạng vật chứng mà không có người chứng kiến; người nhận dạng không mô tả được đặc điểm riêng biệt của vật được đưa ra nhận dạng, lý do vì sao lại nhận dạng ra chiếc áo đó và khẳng định đó là áo của bị cáo Lợi là vi phạm nghiêm trọng Điều 114 BLTTHS năm 1988 (nay là Điều 139 BLTTHS năm 2003), do đó không có giá trị pháp lý và chứng minh trong vụ án.
Nước mắt người trong cuộc
Cuộn tròn nắm văn bản trên tay, Nguyễn Đình Tình thở dài buông những lời vô cùng chán nản. Sự chán nản tôi chưa bao giờ thấy nơi Tình: "Tôi đã chịu đựng, đã chấp nhận, đã chờ đợi và đã hy vọng... Vậy mà cho đến giờ phút này, vẫn chưa có một phán quyết cuối cùng. Tôi luôn nghĩ những gì xảy ra thì đã xảy ra rồi và tự động viên mình cố gắng sống cho những ngày còn lại. Nhưng bỗng dưng chiều nay tôi muốn chết. Trong cái nắng nóng ngộp thở, tôi theo những bước chân vô định đi ra đường. Tôi đi mãi, đi mãi và định hình ra cái chết vì mấy ngày nay, dù không muốn, tôi nghe được rất rõ tình trạng sức khoẻ của mình. Tôi muốn gào lên giữa mặt trời đang nhả lửa rằng hãy sớm cho tôi biết sự thật. Điều tôi sợ nhất lúc này là khi chết mà chưa biết mình được phán quyết có tội hay không. Một lần nữa tôi khẳng định rằng tôi không có tội. Nếu phán quyết tôi có tội, trước khi chết, tôi muốn được biết tôi đã phạm tội gì? Nếu phán quyết đúng, tôi yên lòng nhắm mắt, coi như đã rửa nhục được với tổ tông".
Rồi Tình khóc. Chiều muộn. Tất cả như vỡ vụn trước mắt tôi
* Viết tiếng Việt có dấu, là tôn trọng người đọc.* Chia sẻ bài sưu tầm có ghi rõ nguồn, là tôn trọng người viết.* Thực hiện những điều trên, là tôn trọng chính mình.